Để sử dụng TheCanada.life, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

Loader

Nguy cơ tử vong vì ung thư vú trong vòng 5 năm đã giảm từ 15% trong những năm 1990s xuống còn 5%: nghiên cứu

Theo một nghiên cứu mới, nguy cơ tử vong do ung thư vú đã giảm đáng kể kể từ những năm 1990s, cho thấy hầu hết phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú giai đoạn đầu hiện nay đều sống sót với căn bệnh này một cách lâu dài.

Nghiên cứu được công bố hôm thứ Ba trên tạp chí chuyên ngành The BMJ, đã theo dõi hơn 500.000 người ở Anh được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú giai đoạn đầu từ năm 1993 đến 2015.

Những người tham gia được theo dõi cho đến tháng 12 năm 2020 để theo dõi tiến trình điều trị và xu hướng tử vong dài hạn.

Những gì các nhà nghiên cứu phát hiện ra là phụ nữ được chẩn đoán từ năm 1993-1999 có 14% nguy cơ tử vong trong vòng 5 năm – con số này giảm xuống chỉ còn 5% đối với phụ nữ được chẩn đoán từ năm 2010 đến 2015.

“Nghiên cứu của chúng tôi là một tin tốt cho đại đa số phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú giai đoạn sớm ngày nay vì tiên lượng của họ đã được cải thiện rất nhiều,” Carolyn Taylor, giáo sư ung thư tại Trường Sức khỏe Dân số Oxford và là tác giả chính của nghiên cứu, cho biết trong một thông cáo báo chí. “Nguy cơ tử vong vì ung thư vú của họ trong 5 năm đầu tiên sau khi chẩn đoán hiện nay trung bình là 5%.

Nghiên cứu chỉ xem xét những phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú xâm lấn sớm, nghĩa là ung thư chưa lan qua các hạch vú hoặc nách tại thời điểm chẩn đoán. Sẽ dễ dàng nhất để chống lại ung thư khi được phát hiện sớm — khi ung thư lan rộng ra ngoài vùng cơ thể mà nó bắt nguồn, cơ hội phục hồi sẽ thấp hơn.

Theo Hiệp hội Ung thư Canada (CCS), ung thư vú là nguyên nhân thứ hai gây tử vong do ung thư ở phụ nữ Canada. Tổ chức này ước tính rằng vào năm 2022, khoảng 28.600 phụ nữ Canada được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú mỗi năm.

Khoảng một phần tám phụ nữ ở Canada sẽ phát triển ung thư vú trong đời, CCS ước tính, và cứ 34 người thì có một người chết vì căn bệnh này.

Xu hướng về tỷ lệ tử vong do ung thư vú đã được nghiên cứu trước đây, nhưng chưa có nhiều nghiên cứu xem xét liệu việc giảm nguy cơ có áp dụng rộng rãi cho tất cả bệnh nhân hay liệu có các yếu tố ảnh hưởng đến điều này, chẳng hạn như sàng lọc ung thư và mức độ của khối u ung thư vú.

Để đưa vào những chi tiết này, các nhà nghiên cứu đã xem xét dữ liệu sức khỏe của 512.447 phụ nữ đã đăng ký với Dịch vụ Phân tích và Đăng ký Ung thư Quốc gia (NCRAS) ở Anh.

Tất cả các bệnh nhân đều được phẫu thuật bảo tồn vú hoặc phẫu thuật cắt bỏ vú để loại bỏ mô ung thư.

Các nhà nghiên cứu đã xem xét độ tuổi khi chẩn đoán, tình trạng sàng lọc, khu vực cư trú, thời gian chẩn đoán theo lịch, kích thước khối u, tình trạng thụ thể estrogen và liệu ung thư được coi là loại thấp, trung bình hay cao, trong số các yếu tố khác.

Tình trạng thụ thể estrogen đề cập đến khi các tế bào ung thư vú được loại bỏ trong quá trình sinh thiết được phân tích để xem liệu chúng có các protein cụ thể là thụ thể cho estrogen hoặc progesterone hay không. Những thụ thể này có thể kích thích ung thư phát triển, vì vậy một bệnh nhân dương tính với thụ thể estrogen có nghĩa là việc điều trị ung thư của họ sẽ cần phải khác với bệnh nhân âm tính với thụ thể estrogen.

Những bệnh nhân được chẩn đoán trong giai đoạn 2010-2015 cũng có dữ liệu về việc họ có một loại protein gọi là HER2 trong mô ung thư hay không, loại protein này cũng tạo điều kiện cho ung thư phát triển.

Đến cuối giai đoạn theo dõi, 15% trong nhóm, 77.975 phụ nữ, đã chết vì ung thư vú.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng nguy cơ tử vong giảm đối với tất cả các bệnh nhân nói chung, nhưng mức độ giảm nguy cơ tử vong đó khác nhau tùy thuộc vào một số yếu tố.

Tỷ lệ tử vong do ung thư vú hàng năm đạt đỉnh điểm vào năm thứ ba sau khi chẩn đoán đối với phần lớn bệnh nhân, nhưng tỷ lệ tử vong cao hơn ở những bệnh nhân âm tính với thụ thể estrogen. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân ung thư âm tính với thụ thể estrogen giảm nhanh chóng sau ngưỡng 3 năm và nằm trong số những bệnh nhân sống sót hơn 10 năm, tỷ lệ tử vong hàng năm cao hơn đối với nhóm dương tính với thụ thể estrogen. Điều này cho thấy rằng đối với những bệnh nhân mắc bệnh âm tính với thụ thể estrogen, những năm nguy hiểm nhất là ba năm đầu tiên sau khi chẩn đoán, nhưng những bệnh nhân vượt quá ba năm có thể có cơ hội sống sót lâu dài hơn so với những người mắc bệnh dương tính với thụ thể estrogen.

Dữ liệu cho thấy sau khi điều kiện sàng lọc được mở rộng ở Anh vào năm 2005, từ chỉ phụ nữ ở độ tuổi 50-64 để bao gồm cả phụ nữ ở độ tuổi 65-70, tỷ lệ phụ nữ được phát hiện ung thư thông qua sàng lọc đã tăng từ 13% trong giai đoạn 1993-1999 lên 33% trong giai đoạn 2010-2015.

Nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân được phát hiện ung thư thông qua sàng lọc thấy nguy cơ của họ giảm hơn một chút so với những người không được sàng lọc.

Một trong những nhóm không thấy nguy cơ tử vong giảm nhiều trong thời gian nghiên cứu là phụ nữ ở độ tuổi 80-89 tại thời điểm chẩn đoán, những người có nguy cơ tử vong sau 5 năm chỉ giảm nhẹ kể từ năm 1993.

Các nhà nghiên cứu nói rằng vì nguy cơ tử vong đã giảm rất nhiều sau 5 năm đầu tiên, dữ liệu ung thư vú gần đây hữu ích hơn cho các bác sĩ lâm sàng trong việc hiểu các yếu tố và mô hình rủi ro.

Mặc dù nghiên cứu chỉ xem xét các bệnh nhân được chẩn đoán từ năm 1993-2015, nhưng các nhà nghiên cứu ước tính rằng đối với hầu hết phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú xâm lấn sớm ngày nay, nguy cơ tử vong trong vòng 5 năm có thể thấp hơn 3%.

“Nghiên cứu của chúng tôi cũng có thể được sử dụng để ước tính rủi ro cho từng phụ nữ trong phòng khám. Nó cho thấy tiên lượng sau khi chẩn đoán ung thư vú giai đoạn đầu rất khác nhau,” Taylor nói. “Bệnh nhân và bác sĩ lâm sàng có thể sử dụng kết quả của chúng tôi để ước tính tiên lượng. Trong tương lai, nghiên cứu sâu hơn có thể làm giảm nguy cơ tử vong do ung thư vú nhiều hơn nữa.”

© 2023 CTVNews.ca

Bản tiếng Việt của The Canada Life

ĐỌC THÊM

  • We accept We accept